“NGƯỜI ĐÀN BÀ GIỮ LỬA”
CỦA ĐINH QUANG VINH
(Giới thiệu tập thơ “Người đàn bà giữ lửa” của Đinh Quang Vinh; Nxb. Văn học, 2012).
Năm 2003, tôi lên Thái Nguyên viết bài phản ánh tiến độ xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn. Người đưa tôi đi công trường là anh Đinh Quang Vinh – khi đó anh là Giám đốc Ban Quản lý Dự án công trình xây dựng Nhà máy. Giữa vùng ngổn ngang đất đá, những hố móng khổng lồ sắt thép vươn tua tủa, anh Vinh giới thiệu với tôi, đây là hố móng tuabin, trái tim của Nhà máy, kia là hố móng ống khói v.v. Rồi anh say sưa nói về công nghệ tầng sôi tuần hoàn, lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam, cụ thể là ở công trình đang xây dựng này và một dự án khác, cũng do ngành Than xây dựng, là Nhiệt điện Na Dương. Anh cho hay, đây là công nghệ tiên tiến, không kén nguyên liệu, hạn chế ô nhiễm môi trường và nhiều ưu thế vượt trội khác so với công nghệ truyền thống đã áp dụng ở Việt Nam. Thú thật, khi đó tôi không hiểu và chưa tin lắm về những điều anh nói. Đã có nhiều ý kiến cho rằng, ngành Than mà nhảy sang làm điện là viển vông!
Nhưng sau hơn 3 năm xây dựng, hai nhà máy nhiệt trên đã đi vào hoạt động và chạy ổn định, hết công suất, mỗi năm, sản lượng điện của mỗi nhà máy đạt trên 700 triệu kWh điện. Tính theo giá điện bán cho ngành Điện hiện nay, mỗi ngày, “mở mắt ra”, hai nhà máy trên đã “đẻ” ra trên 3 tỷ đồng.
Sau thành công của nhà máy nhiệt điện Na Dương và Cao Ngạn, Tập đoàn Vinacomin xây dựng hàng loạt nhà máy nhiệt điện đốt bằng than xấu theo công nghệ tầng sôi tuần hoàn như Nhiệt điện Sơn Động (Bắc Giang), Cẩm Phả, Mạo Khê (Quảng Ninh), Nông Sơn (Quảng Nam) v.v. thậm chí còn xây dựng và chuẩn bị xây dựng các nhà máy ở vùng sâu vùng xa. v.v. Từ nhiệt điện Cao Ngạn, Na Dương, bây giờ Tập đoàn Vinacomin có cả Tổng Công ty Điện lực, quản lí hàng chục nhà máy điện và các dự án xây dựng nhà máy điện. Mỗi năm, các nhà máy điện của Tập đoàn Vinacomin cung cấp cho lưới điện quốc gia hàng tỷ kWh điện; góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu điện gay gắt ở nước ta.
Tại một số diễn đàn, có vị lãnh đạo Tập đoàn Vinacomin khẳng định rằng, nếu nói về kinh nghiệm xây dựng nhà máy nhiệt điện bằng công nghệ tầng sôi tuần hoàn, ở nước ta, Vinacomin hiện đứng đầu bảng! Điều khẳng định này khiến tôi bất ngờ và tự hỏi, công nghệ sôi tuần hoàn là thế nào? Tính ưu việt của nó ra sao? Rồi tôi chợt nẩy ra ý định đặt bài anh Vinh viết về công nghệ này để làm sáng tỏ khẳng định trên. Bài viết của anh đăng trên Tạp chí Than – Khoáng sản Việt Nam đã phân tích, đánh giá rất sâu về chuyên môn, qua đó khẳng định năng lực hàng đầu của Vinacomin về xây dựng nhà máy nhiệt điện bằng công nghệ này.
Từ đó, mỗi lần lên tác nghiệp ở Nhà máy, câu chuyện giữa tôi với anh Vinh chủ yếu xoay quanh những đề tài mà anh chủ trì áp dụng ở Công ty. Chẳng hạn như xây dựng nguồn nhân lực để làm chủ công nghệ; hay về sản xuất gạch không nung từ tro xỉ, giảm thiểu ô nhiễm môi trường v.v.Với những đề tài như vậy, tôi lại đặt anh viết bài.
Được biết những công việc của anh đã làm trong suốt 10 năm, kể từ khi xây dựng Nhà máy cho đến nay; được thấy sự phát triển ổn định bền vững của Công ty do anh làm Giám đốc, tôi cứ ngỡ anh là chuyên gia về công nghệ nhiệt điện. Nhưng tôi và có lẽ nhiều người khác đã nhầm! Anh là kỹ sư trắc địa. Từ năm 1971, anh đã làm công nhân trắc địa tại một đơn vị thuéc Bộ Cơ khí – Luyện kim. Năm 1974, anh thi đỗ vào khoa Trắc địa, Trường Đại học Mỏ – Địa chất. Năm 1980, sau khi tốt nghiệp Đại học vµ tèt nghiÖp kho¸ sÜ quan dù bÞ ph¸o binh, anh về làm việc tại Mỏ than Khánh Hòa và từ đó đến nay anh gắn bó với ngành Than, trải qua nhiều cương vị công tác khác nhau. Tháng 10, năm 1994, khi Tổng Công ty than Việt Nam được thành lập, anh được bổ nhiệm là Trưởng Ban Kế hoạch của Tổng Công ty (nay là Tập đoàn Vinacomin).
Biết nhau đã lâu, làm việc với anh đã nhiều nhưng dường như chẳng bao giờ chúng tôi nói đến chuyện về văn chương. Một hôm, gặp tôi, anh đưa bản thảo bài thơ, bảo tôi đọc, nếu thấy được thì cho đăng trên Tạp chí Than. Bài thơ có tên là “Cảm xúc tháng Mười”, của tác giả Hoa Lư. Khổ đầu thế này:“Tháng Mười về trái trám rụng vườn sau/ Chim cu gáy đồng xa vàng lúa chín/ Sương giăng trắng mảnh vườn kỷ niệm/ Chút heo may dẫn lối thu về…”.
Những câu thơ mở đầu của bài thơ thật nhuần nhuyễn, đằm thắm, khiến tôi bất ngờ, bèn hỏi Hoa Lư là ai? Anh tủm tỉm cười, bảo là của anh. Từ đó, bút danh Hoa Lư thi thoảng xuất hiện trên Tạp chí Than – Khoáng sản VN và một số tờ báo khác. Cứ nghĩ anh là “nhà thơ trẻ” nhưng thực ra, anh làm thơ đã lâu, bài thơ đầu tay anh viết từ năm 1969, nhưng anh không thật chuyên tâm vào sáng tác thi ca. Đến năm 2012, anh mới cho xuất bản tập thơ “Người đàn bà giữ lửa”, do Nxb. Văn học ấn hành.
Là người nhiều năm gắn bó với cuộc sống sôi động của người thợ ngành Than; lăn lộn trong nắng gió công trường, nhưng thơ anh chủ yếu nói về quê hương đất nước, về tình yêu với cảm xúc trong trẻo và nói về thế sự với những suy tư, những triết lý sâu xa. Có lã đó là sự khác biệt ở anh với những người làm thơ trong ngành Than – Khoáng sản Việt Nam. Chẳng hạn, viết về cái làng nhỏ quê anh ở ven bờ sông Chanh, anh có những câu thơ thật cảm động, đau đáu một nỗi nhớ nhung cái làng quê Bắc bộ điển hình ấy: Đời cứ theo dòng trôi biệt biệt/ Qua những làng quê, những làng quê…/Không dưng ai nhớ ai đâu nhỉ/ Chỉ có hồn quê mãi gọi về. (Hồn quê).
Dòng sông Hồng mênh mang nổi tiếng từ ngàn xưa, là người Việt mấy ai không nghe đến, biết đến, còn anh thì cảm nhận nó như là biểu tượng của tinh thần đấu tranh bất khuất và lao động cần cù của nhân dân Việt Nam qua biết bao thế hệ: Hồng Hà là sợi chỉ đỏ chảy xuyên/ Nối những tâm hồn những ước mơ dân tộc (Sông Hồng)
Đất nước mình do đặc điểm địa – chính trị đặc biệt nên phải hứng chịu rất nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, hứng chịu nhiều nỗi đau, nên anh viết: Thắp nén nhang trước bàn thờ Tổ quốc/ Lòng đau thầm bao thế kỷ chiến tranh. (Cổ Loa).
Nhưng âm hưởng yêu thương, tự hào, lạc quan vẫn là âm hưởng chủ đạo của tình yêu quê hương đất nước trong thơ anh: Rồi chầm chậm thấm sâu vào lịch sử/ Những mái chùa cong giếng nước sân đình/ Em như ngọc ẩn trong truyền thuyết cổ/Có một ngày toả sáng cuộc đời anh. (Hoa bằng lăng).
Cũng như bao người làm thơ khác, mảng thơ về tình yêu của anh cũng khá phong phú, quyết liệt: Dẫu sâu ba thước đất/ Dẫu bạn cũ lãng quên/Thì em, em hãy nhớ/ Có một tình yêu anh.(Trên mộ chí đơn sơ)
Thơ anh cũng phản ánh mọi cung bậc tình yêu: đợi chờ, nhớ nhung, hờn giận, yêu thương… nhưng tuyệt nhiên không có trách móc:
Người ta cứ nói/Có hề gì đâu/Vì tim tôi đã…/Hình em khắc sâu.
(Vì tim tôi đã…)
Đó có vẻ như là thứ tình yêu cổ điển, sâu sắc mà kiệm lời, vốn dĩ phổ biến ở thế hệ anh: Thật vô ích khi người ta cứ cố/Trải lòng mình trên trang giấy tinh khôi/Tình yêu như lửa hồng âm ỉ/Cháy trong tim không thể cất thành lời. (Gửi…).
Anh có sự cảm thông rất chân thành với thân phận con người, những người nghèo khó, lam lũ, đặc biệt với phụ nữ và trẻ em, vốn là kẻ khó nhất trong những kẻ khó, kẻ lam lũ nhất trong những kẻ lam lũ: Thương chú bé đánh giày/ Hòm nghề cao tới ngực/ Xưa nơi ta hát ca/Nay nơi chú kiếm sống. (Lối cũ trong công viên).
Tuy nhiên anh luôn tin vào điều thiện trong cuộc đời này, tin rằng với sự lao động lương thiện và tình yêu thương con người sẽ giúp người ta vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống, chiến thắng được số phận, tin rằng mọi thứ sẽ qua đi nhưng tình yêu mãi mãi còn lại.
5/2012.
Nhà văn Cao Thâm







